Từ nạn nhân trở thành bị cáo – sự thật ít ai ngờ: Người đưa tiền trong các vụ án lừa đảo chạy án, xin việc công chức không thoát khỏi trách nhiệm hình sự.

40 Lượt xem

Bạn lo lắng khi đã đưa tiền nhưng đối tượng không thực hiện cam kết thậm chí là chiếm đoạt toàn bộ số tiền?

Bạn muốn biết người có hành vi nhận tiền chạy án sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gì?

Bạn băn khoăn liệu có cách nào để vừa đòi lại được tiền, vừa hạn chế nguy cơ bị khởi tố hình sự?

Thực tế, hiện tượng “chạy án” không hề xa lạ trong xã hội và thường đi kèm với nhiều rủi ro pháp lý cho cả người đưa tiền lẫn người nhận chạy án. Trong bài viết này, Luật Đất Thủ sẽ phân tích bản chất pháp luật của hành vi chạy án, chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này cũng như bài học cần thiết để bạn có cái nhìn đúng đắn và lựa chọn hướng giải quyết cho phù hợp, để không xảy ra những điều không mong muốn.

Thời gian gần đây, nhiều người phản ánh tình trạng đưa tiền cho một số đối tượng để nhờ “chạy án” hoặc “xin việc công chức”. Tuy nhiên, sau khi nhận tiền, các đối tượng không thực hiện đúng cam kết mà chiếm đoạt toàn bộ số tiền. Bức xúc, người chạy án đã làm đơn tố giác hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Như vậy “chạy án” là gì? Người thực hiện hành vi này sẽ bị xử lý như thế nào? Và người đưa tiền nhờ chạy án có vi phạm pháp luật không?

“Chạy án” là gì?

Hiện pháp luật hình sự không có quy định về khái niệm “chạy án” là gì? Tuy nhiên, có thể hiểu chạy án là việc một người hoặc nhóm người dùng mọi thủ đoạn để bóp méo, xoay chuyển vụ án theo hướng có lợi cho người phạm tội. 

Các đối tượng “nhận chạy án” thường là những người có quyền hạn, địa vị, mối quan hệ rộng trong các cơ quan, nhà nước. Từ đó, lợi dụng quyền hạn, các mối quan hệ, sự tín nhiệm của mình mà trực tiếp hoặc thông qua trung gian thực hiện các hành vi nhằm “đổi trắng thay đen” giúp người có tội thoát được tội hay hưởng án nhẹ hơn so với hành vi phạm tội. 

Với các hành vi đó người phạm tội đã xâm phạm đến các chuẩn mực đúng đắn, quy trình hoạt động, trách nhiệm làm việc trong cơ quan tổ chức. Tùy vào từng trường hợp cụ thể, người nhận tiền chạy án có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nhận hối lộ hoặc tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản…

Những nguyên nhân làm nảy sinh hành vi “chạy án, chạy việc, chạy chức,……”

  • Người dân nhẹ dạ cả tin, thiếu hiểu biết và tin tưởng vào những kẻ lừa đảo với vẻ ngoài hào nhoáng, lời nói ngon ngọt, khoe mẻ về mối quan hệ, chức vụ và thậm chí là giấy tờ giả.
  • Người dân coi trọng giá trị đồng tiền, cho rằng có thể dùng tiền để đạt được nhiều mục trái pháp luật như chạy án, chạy việc, chạy chức,….
  • Thiếu minh bạch trong thủ tục hành chính, tuyển dụng, bổ nhiệm để các đối tượng lợi dụng những kẽ hở và thông tin “truyền miệng” từ các mối quan hệ để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
  • Tiêu cực trong xã hội còn tồn tại nhiều và đạo đức cán bộ xuống cấp: Một số các bộ đã bị xử lý vì nhận tội hối lộ khiến nhiều người dân càng tin rằng có thể dùng tiền để mua chuộc, thay đổi cán cân công lý.
  • Một thời gian kéo dài sống trong thời thực dân, phong kiến, đô hộ nên đã tạo ra tâm lý thờ ơ, coi thường pháp luật, tin rằng tiền bạc có thể thay đổi pháp luật nên không tìm đến luật sư bảo vệ, tư vấn, hỗ trợ cung cấp các dịch vụ pháp lý mà dựa vào môi giới, quan hệ để “chạy án”.
  • Nhiều người tin rằng vì tình cảm, vì lễ nghĩa, vì tiền bạc mà người có quyền hạn có thể thay đổi kết quả giải quyết vụ việc.

Trách nhiệm hình sự đối với hành vi nhận tiền chạy án

Trường hợp 1: Người nhận tiền chạy án không có chức vụ, quyền hạn

Nếu người thực hiện hành vi nhận tiền chạy án không có chức vụ, quyền hạn thì người này có thể bị truy tố về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bởi người này không có chức vụ, quyền hạn, không thể can thiệp và thực hiện được việc thay đổi tội danh, khung hình phạt, …. có lợi cho người phạm tội nhưng vẫn nhận tiền  nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.

Theo đó, mức xử phạt đối với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản căn cứ tại Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bởi Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017, như sau:

Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

  • Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; 
  • Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; 
  • Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; 
  • Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.

Mức phạt cao nhất trong trường hợp này có thể là chung thân. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10-100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Trường hợp 2: Người nhận tiền chạy án có chức vụ, quyền hạn

Nếu người này có chức vụ, quyền hạn thì có thể bị khép vào Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 hoặc Tội nhận hối lộ theo quy định tại Điều 354 Bộ luật Hình sự 2015.

*Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Theo đó, Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại Điều 175 BLHS 2015 được sửa đổi bởi Khoản 35 Điều 1 Luật sửa đổi BLHS 2017 quy định:

Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 4 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của BLHS 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

  • Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
  • Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

Mức phạt cao nhất cho tội này có thể phạt tù đến 20 năm.Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01-05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản

*Tội nhận hối lộ

Theo đó, người nào có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để thực hiện hành vi chạy án theo yêu cầu của người đưa hối lộ thì bị truy cứu trách nhiệm tội nhận hối lộ:

Lợi ích phi vật chất là lợi ích vật chất không phải là tài sản sau: (hướng dẫn tại khoản 4 Điều 3 Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP)

+ Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

+ Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.

Ví dụ: Hối lộ bằng cách tặng thưởng, đề xuất tặng thưởng các danh hiệu, giải thưởng; bầu, cử, bổ nhiệm chức vụ; nâng điểm thi; hứa hẹn cho tốt nghiệp, cho đi học, đi thi đấu, đi biểu diễn ở nước ngoài; hối lộ tình dục, …

– Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên;

– Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi nhận hối lộ mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội sau, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm:

+ Tội tham ô tài sản

+ Tội nhận hối lộ

+ Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản

+ Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ

+ Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ

+ Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi

+ Tội giả mạo trong công tác

Như vậy, người có hành vi nhận hối lộ để chạy án có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội nhận hối lộ thì bị phạt tù từ 02 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình tùy theo mức độ vi phạm.

Ngoài ra, người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Người tố giác có thể đối mặt với tội đưa hối lộ

Điều khiến nhiều người bất ngờ là chính người đưa tiền cũng có thể bị xử lý. Bởi việc đưa tiền để nhờ “chạy án” hoặc “xin việc công chức” đã cấu thành hành vi đưa hối lộ theo Điều 364 Bộ luật Hình sự.

Thực tế, đã có trường hợp cơ quan điều tra mời những người tố giác đến làm việc, thậm chí xem xét khởi tố về hành vi đưa hối lộ. Như vậy, nếu chỉ tố cáo đối tượng lừa đảo mà không thành thật khai báo, người đưa tiền có nguy cơ vừa mất tiền, vừa vướng vòng lao lý.

“Điều 364: Tội đưa hối lộ

  1. Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
  2. a) Tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
  3. b) Lợi ích phi vật chất……”

Như vậy, người nào có hành vi đưa tiền trực tiếp hay qua trung gian cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác nhằm để người có chức vụ, quyền hạn thực hiện việc chạy án theo yêu cầu của người đưa tiền thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội đưa hối lộ.

Người bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội đưa hối lộ bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 20 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

Bài học rút ra

Những vụ việc trên là lời cảnh báo rõ ràng: việc “chạy án”, “chạy việc” bằng tiền không chỉ tiềm ẩn rủi ro mất mát tài sản, mà còn có thể đẩy chính người đưa tiền vào vòng tố tụng hình sự. Người dân cần hết sức cảnh giác, không đặt niềm tin vào những lời hứa hẹn “lo liệu công việc” trái pháp luật.

– Cần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật, nâng cao sự hiểu biết của người dân đối với các thủ tục hành chính pháp lý, hiểu biết vào hệ thống các cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng.

– Nâng cao đạo đức cán bộ, kịp thời xử lý nghiêm minh các cán bộ nhận hối lộ, các đối tượng môi giới hối lộ và xử lý đối với những người đưa hối lộ theo quy định của pháp luật trách việc có thể xảy ra chuyện sử dụng tiền bạc làm thay đổi cán cân công lý.

– Cần phải siết chặt kỷ luật kỷ cương trong hoạt động thi hành công vụ đặc biệt là những cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng cần phải nghiêm túc, các cán bộ tham gia vào hoạt động tố tụng cần phải liêm chính, chí công vô tư

– Cần đảm bảo điều kiện vật chất, tinh thần và nâng cao đạo đức của đội ngũ cán bộ để người dân có niềm tin rằng họ không thể bị mua chuộc được bởi tiền bạc. Khi đó người dân sẽ không dễ gì bỏ tiền cho các đối tượng lừa đảo để tác động đến những người này.

– Hoạt động giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật cần phải được đề cao hơn nữa để người dân có ý thức chấp hành pháp luật, có niềm tin vào pháp luật, thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Làm sao để bảo vệ bản thân khi đã lỡ vướng vào vòng lao lý của pháp luật?

Khuyến nghị: người đưa tiền khi làm đơn tố giác nên đồng thời tự thú và xin miễn trách nhiệm hình sự. Khoản 7 Điều 364 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định: “Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ số tiền đã dùng để đưa hối lộ.”

Người đưa hối lộ được miễn trách nhiệm hình sự hoặc có thể được miễn trách nhiệm hình sự theo Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 được bổ sung bởi điểm a khoản 1 Điều 2 Luật Sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017 quy định căn cứ miễn trách nhiệm hình sự:

– Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa

– Khi có quyết định đại xá.

– Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;

– Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa

– Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.

Do đó, cách xử lý đúng đắn là:

  • Trung thực khai báo rõ hành vi sự ;
  • Làm đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự;
  • Đồng thời tố giác hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Bài viết liên quan