Bị hại bãi nại, từ chối giám định – Liệu người gây thương tích có thoát tội?

44 Lượt xem

Trong thực tế, nhiều người lầm tưởng rằng nếu người bị hại trong vụ cố ý gây thương tích làm đơn bãi nại hoặc từ chối giám định thương tích, thì người gây ra thương tích sẽ “thoát tội” và không bị xử lý hình sự. Tuy nhiên, quan niệm này là hoàn toàn sai lầm.

1. Đơn bãi nại là gì?

Đơn bãi nại, hay còn gọi là đơn rút yêu cầu khởi tố là một văn bản thể hiện ý chí của người bị hại (hoặc người đại diện hợp pháp của họ) về việc không còn yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiếp tục xử lý hình sự đối với hành vi phạm tội đã xảy ra. 

Về cơ bản, đơn bãi nại phản ánh sự thay đổi nguyện vọng của bị hại, có thể do họ đã được bồi thường thiệt hại, đã đạt được thỏa thuận hòa giải hoặc đơn giản là không muốn tiếp tục theo đuổi vụ việc.

Đơn bãi nại không phải là “giấy phép” thoát khỏi trách nhiệm hình sự. Giá trị pháp lý của đơn bãi nại phụ thuộc vào tính chất tội phạm và quy định của Bộ luật Hình sự. Luật Việt Nam phân biệt hai nhóm tội phạm: tội phạm khởi tố theo yêu cầu của bị hại (nếu bị hại rút yêu cầu, vụ án đình chỉ trừ trường hợp bị ép buộc) và tội phạm không phụ thuộc vào yêu cầu của bị hại (cơ quan tố tụng vẫn tiếp tục điều tra, truy tố nếu có căn cứ tội phạm).

Ví dụ: Hai người xô xát, một người bị thương nhẹ rồi viết đơn bãi nại vì hai bên đã hòa giải. Trường hợp này, vụ án có thể được đình chỉ. Nhưng nếu thương tích nặng hoặc có dùng hung khí nguy hiểm, thì dù có bãi nại, cơ quan công an vẫn tiếp tục xử lý.

2. Giám định thương tích là thủ tục bắt buộc

Theo quy định của pháp luật hình sự, hành vi cố ý gây thương tích chỉ có thể được xem xét xử lý khi có kết quả giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể.
Tỷ lệ thương tật chính là căn cứ quan trọng để xác định:Hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay không?; Nếu có hành vi vi phạm, thì người vi phạm thuộc khoản, điểm nào trong Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Ví dụ: Nếu tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%, hành vi có thể bị xử lý theo khoản 1 Điều 134 BLHS (trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng). Ngược lại, nếu có các tình tiết tăng nặng như sử dụng hung khí nguy hiểm, phạm tội với trẻ em, với người có công, với thầy cô giáo, hoặc có tính chất côn đồ,… thì hành vi có thể bị xử lý theo các khoản cao hơn của điều luật.

Như vậy, giám định thương tích là bước bắt buộc để cơ quan tiến hành tố tụng xác định tội danh, mức độ vi phạm và trách nhiệm hình sự của người gây thương tích.

Khi nào bắt buộc phải giám định?

Trong trường hợp cá nhân bị gây thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe thì phải trưng cầu giám định. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào cơ quan cũng có thể thực hiện giám định nếu bị can từ chối giám định.

Nhưng nếu bị can thuộc các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định tại Điều 206  Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì cơ quan có thẩm quyền thực hiện theo quy định:

(1) Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án.

(2) Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó.

(3) Nguyên nhân chết người.

(4) Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe hoặc khả năng lao động.

(5) Chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ.

(6) Mức độ ô nhiễm môi trường.

Theo đó, trong trường hợp xét thấy bị hại có dấu hiệu thương tật thì cơ quan điều tra vẫn có quyền giám định thương tật mà không phải có sự đồng ý của bị can.

3. Lưu ý cho người bị hại và người vi phạm

Giết người và giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng – xác định

– Đối với người bị hại, nếu chưa tiến hành giám định thương tích thì vẫn có quyền yêu cầu giám định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

– Đối với người gây thương tích, việc người bị hại bãi nại chỉ có thể xem là tình tiết giảm nhẹ, chứ không đảm bảo “an toàn tuyệt đối” trước pháp luật.

4. Cố ý gây thương tích có đơn bãi nại có phải đi tù không?

Căn cứ theo Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được sửa đổi bởi khoản 3 Điều 1 Luật Sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự 2021 quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại cụ thể như sau:

  1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ Luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.
  2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
  3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.

Như vậy, theo quy định thì nếu người khởi kiện đã có đơn bãi nại thì người bị khởi kiện sẽ không phải đi tù nếu thuộc một trong những trường hợp tại khoản 1 của một số tội quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017, cụ thể:

– Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134 Bộ luật Hình sự).

– Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135 Bộ luật Hình).

+ Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136 Bộ luật Hình sự).

– Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 138 Bộ luật Hình sự).

– Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 139 Bộ luật Hình sự).

– Tội hiếp dâm (Điều 141 Bộ luật Hình sự).

– Tội cưỡng dâm (Điều 143 Bộ luật Hình sự).

– Tội làm nhục người khác (Điều 155 Bộ luật Hình sự).

– Tội vu khống (Điều 156 Bộ luật Hình sự).

Tóm lại, người gây thương tích chỉ được miễn trách nhiệm hình sự khi hành vi thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của bị hại và người bị hại đã rút yêu cầu. Còn nếu hành vi thuộc nhóm tội khởi tố không phụ thuộc yêu cầu, thì việc bãi nại chỉ được xem là tình tiết giảm nhẹ.

Kết luận

Tóm lại, trong các vụ cố ý gây thương tích, việc bị hại bãi nại hoặc từ chối giám định không đồng nghĩa người vi phạm ‘thoát tội’. Giám định thương tích là căn cứ bắt buộc để xác định tội danh và khung hình phạt. Cả hai bên cần hiểu đúng để bảo vệ quyền lợi và tránh hiểu lầm pháp lý.

Bài viết liên quan